
Tại Việt Nam, nhiều chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy tuy không được sản xuất trong nước nhưng vẫn đang được nhập khẩu và sử dụng trong các ngành công nghiệp (nguồn: Minh Phương CORP).
Hiện nay, tại Việt Nam, nhiều chất POP như: PBDEs, PFOS, HBCDD, SCCP... tuy không được sản xuất trong nước nhưng được nhập khẩu và sử dụng trong các ngành công nghiệp như: sơn, nhựa, mạ kim loại, vật liệu cách nhiệt và dệt may. Trong khi đó, các quy định và cơ chế khuyến khích để chuyển đổi sang một nền sản xuất không sử dụng và phát thải các chất POP còn chưa đạt yêu cầu đề ra, đặc biệt còn nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thủy ngân cũng đang hiện diện phổ biến trong các thiết bị y tế như nhiệt kế, huyết áp kế và bóng đèn huỳnh quang. Hiện hệ thống thu gom, phân loại và xử lý an toàn các sản phẩm chứa thủy ngân sau khi hết hạn sử dụng còn chưa được đồng bộ nên vẫn còn nguy cơ ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến cộng đồng và môi trường.
Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn hai công ước quốc tế quan trọng nhằm kiểm soát ô nhiễm hóa chất: Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (năm 2001) và Công ước Minamata về thủy ngân (năm 2013). Tuy nhiên, trong thực tế, các hóa chất này vẫn tiếp tục được sử dụng, đặc biệt trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp như nhựa, sơn, xi mạ, vật liệu cách nhiệt, và thiết bị y tế. Việc khởi động dự án đúng vào thời điểm Công ước Stockholm vừa thông qua việc loại bỏ thêm ba nhóm hóa chất độc hại toàn cầu (chlorpyrifos, PFCAs chuỗi dài, MCCP) càng cho thấy tính cấp thiết và phù hợp của Dự án trong bối cảnh Việt Nam cần nhanh chóng cập nhật các quy định và chính sách quốc gia về quản lý hóa chất độc hại.
Dự án được triển khai trong vòng 4 năm, với ngân sách hơn 4,6 triệu USD tài trợ từ GEF và nguồn đối ứng trong nước là 28,5 triệu USD. Dự án do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì thực hiện, với sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp và cộng đồng.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành nhấn mạnh, Dự án sẽ góp phần tăng cường công tác quản lý môi trường, giảm thiểu phát thải POP, U-POP và thủy ngân thông qua hỗ trợ xây dựng và hoàn thiện các quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật về quản lý vòng đời sản phẩm. Dự án cũng thúc đẩy các giải pháp tài chính xanh, hệ thống nhãn sinh thái, mua sắm xanh và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ, thiết kế sản phẩm thân thiện với môi trường, hướng tới phát triển nền kinh tế tuần hoàn và tiêu dùng bền vững.
VVH