Hơn một thế kỷ qua, báo chí cách mạng không chỉ là công cụ tuyên truyền hiệu quả của Đảng mà còn là tiếng nói đồng hành cùng phụ nữ Việt Nam trong hành trình khẳng định vị thế, vai trò trong gia đình và xã hội. Những nỗ lực của các nhà báo nữ và dòng báo nữ đã góp phần thay đổi nhận thức xã hội về giới, thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của đất nước. Thông qua các bài viết, chuyên mục, chương trình, báo chí đã phản ánh trung thực, sâu sắc đời sống của phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh, trong xây dựng hòa bình và hội nhập quốc tế, qua đó thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến phát biểu Hội thảo (nguồn: Phụ nữ Việt Nam).
Tại hội thảo, các đại biểu cùng nhau trao đổi, phân tích những nghiên cứu và dẫn chứng lịch sử, làm nổi bật vai trò của báo chí nữ và các nhà báo nữ qua các thời kỳ. Đặc biệt, 35 tham luận, cùng các ý kiến gửi tới hội thảo là những công trình nghiên cứu công phu của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà báo, lãnh đạo cơ quan báo chí và cán bộ Hội.
Báo chí góp phần thay đổi nhận thức xã hội về phụ nữ trong hoạt động khoa học và công nghệ
Theo TS Vũ Tuấn Anh - Trưởng khoa Truyền thông và Văn hoá đối ngoại, Học viện Ngoại giao, báo chí đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến tri thức khoa học và công nghệ tới công chúng, đồng thời góp phần thay đổi nhận thức xã hội về vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực này. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, truyền thông đại chúng không chỉ là kênh thông tin mà còn là công cụ định hướng xã hội, thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế của nữ giới trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.
Thứ nhất, báo chí là “cầu nối” giữa các nhà khoa học nữ và công chúng. Thông qua các chuyên mục khoa học, bài phỏng vấn, chương trình truyền hình hay bản tin thời sự, báo chí có thể giới thiệu rộng rãi hình ảnh những nữ trí thức tiêu biểu, từ đó truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, đặc biệt là nữ sinh theo đuổi STEM.
Thứ hai, báo chí có khả năng thay đổi nhận thức xã hội bằng cách phá vỡ các định kiến giới tồn tại lâu đời trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Việc truyền thông về các thành tựu khoa học và công nghệ của phụ nữ, các câu chuyện vượt qua rào cản giới và những sáng kiến thúc đẩy bình đẳng trong nghiên cứu giúp công chúng hiểu rằng năng lực khoa học không phụ thuộc vào giới tính, mà là kết quả của sự cống hiến và sáng tạo.
Thứ ba, báo chí là kênh giám sát và phản biện chính sách, từ đó tạo áp lực xã hội nhằm cải thiện môi trường làm việc và nghiên cứu cho phụ nữ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Thông qua việc phản ánh thực trạng bất bình đẳng giới, thiếu chính sách hỗ trợ, phân biệt trong cơ hội tiếp cận đề tài hoặc vị trí lãnh đạo, báo chí giúp vấn đề trở thành một phần của nghị trình công cộng, góp phần thúc đẩy hành động từ các cơ quan quản lý.
Cuối cùng, trong thời đại kỹ thuật số, báo chí còn phát huy vai trò thông qua các nền tảng đa phương tiện như mạng xã hội, podcast, video ngắn… giúp nội dung truyền thông khoa học, công nghệ và bình đẳng giới tiếp cận đa dạng công chúng, đặc biệt là giới trẻ.
Những vấn đề đặt ra đối với dòng báo nữ trong kỷ nguyên số
TS Liêu Chí Trung - Phó Tổng biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, báo chí nói chung và dòng báo nữ nói riêng đang đứng trước những thay đổi căn bản về tư duy, phương thức tổ chức, quy trình xuất bản và mô hình tiếp cận công chúng. Độc giả ngày nay không chỉ đọc mà còn tương tác, chia sẻ, tạo nội dung và phản hồi đa chiều trên nhiều nền tảng. Điều này buộc dòng báo nữ phải đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ: giữ gìn bản sắc, nhưng vẫn phải đổi mới nội dung, hiện đại hóa công nghệ để không bị tụt hậu giữa bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ mạng xã hội, các nền tảng nội dung số và xu hướng cá nhân hóa thông tin.
Trong kỷ nguyên số, việc chuyển đổi số là xu hướng tất yếu đối với các cơ quan báo chí. Đó là sự thay đổi về phương thức tổ chức, quy trình xuất bản và hình thức thể hiện trong hoạt động. Ở đó, trước hết là sự thay đổi về nhận thức, chuẩn bị về nhân lực, đầu tư đổi mới mô hình quản trị, quy trình xuất bản, rồi ứng dụng công nghệ số trong hoạt động chuyên môn, cách tiếp cận công chúng, khai thác kinh tế số… Người làm báo lúc này, bên cạnh những đòi hỏi về sức khỏe thể chất, tinh thần, sự đam mê, điều kiện làm việc, còn phải hội tụ các yếu tố về kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật và công nghệ để có thể tận dụng được lợi thế về kinh nghiệm, công nghệ thông tin. Tuy nhiên, những vấn đề này đến nay không phải tất cả các cơ quan báo chí đều đã sẵn sàng và có đủ điều kiện để áp dụng triển khai ngay. Đặc biệt, trong bối cảnh nhiều cơ quan báo chí từ chỗ vốn đã quen với phương thức hoạt động báo chí truyền thống, nay chuyển sang tự chủ kinh tế nhưng vẫn phải thực hiện các nhiệm vụ thông tin tuyên truyền theo yêu cầu sẽ không khỏi lúng túng, khó khăn.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo (nguồn: Phụ nữ Việt Nam).
Đối với dòng báo nữ ở Việt Nam, tuy đã khẳng định được vị thế của mình, nhưng bên cạnh những cơ hội còn phải đối mặt với không ít thách thức trong kỷ nguyên số. Do nhiều nguyên nhân nên dẫu hệ thống các cơ quan báo chí ở nước ta được xem là đã có sự phát triển mạnh mẽ, phụ nữ đã có những cơ quan báo chí của mình với các loại hình báo chí khác nhau, song không phải báo của phụ nữ chỉ dành cho phụ nữ và tất cả thông tin của báo chí đều được phụ nữ đón nhận. Vì vậy, việc báo chí thể hiện ra sao để hấp dẫn, mang lại giá trị cho phụ nữ là việc không dễ. Thậm chí, phụ nữ có thể đảm nhận thực hiện được tất cả các vị trí, phần việc giống như nam giới, nhưng không phải sản phẩm nào của họ cũng để dành cho phụ nữ và được phụ nữ quan tâm, chờ đợi.
Giải pháp nâng cao vai trò của dòng báo nữ và tăng sự hiện diện của phụ nữ trong khoa học và công nghệ thông qua truyền thông
Từ những vấn đề đặt ra, tham luận của các đại biểu cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của dòng báo nữ và tăng sự hiện diện của phụ nữ trong khoa học và công nghệ thông qua truyền thông.
Thứ nhất, cần tiếp tục nâng cao và đẩy mạnh tuyên truyền, nhận thức về vai trò, vị trí của phụ nữ trong xã hội nói chung và báo chí nữ nói riêng. Mặc dù, thời gian qua vấn đề bình đẳng giới và công tác phụ nữ luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng, nhưng trên thực tế, đâu đó vẫn còn tồn tại những khoảng cách chênh lệch giữa nam và nữ trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định cũng như trong thực tế.
Thứ hai, cần có chính sách bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng giới một cách thực chất, đầy đủ. Cụ thể, nhà nước và các tổ chức, cơ quan quản lý cần có chủ trương, chính sách phù hợp nhằm khuyến khích, tạo điều kiện để báo chí nữ và phụ nữ làm báo phát huy trong hoàn cảnh mới.
Thứ ba, đối với các cơ quan chủ quản báo chí, cần tăng cường quan tâm chỉ đạo, định hướng và tạo điều kiện, hỗ trợ để duy trì, phát huy hoạt động của các cơ quan báo chí của phụ nữ, nội dung hoạt động liên quan đến nữ giới cũng như vai trò của phụ nữ làm báo. Đó không chỉ là những định hướng chung chung, mà cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất, hỗ trợ đào tạo và chia sẻ những khó khăn thực tế đối với các cơ quan báo chí.
Thứ tư, đối với các cơ quan báo chí của phụ nữ và báo chí về phụ nữ cần bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, cơ quan chủ quản, nghiên cứu để có chiến lược phát triển phù hợp trong giai đoạn mới.
Thứ năm, đối với phụ nữ làm báo và người làm báo về phụ nữ. Trong kỷ nguyên số, phụ nữ làm báo và người làm báo về phụ nữ cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với cộng đồng xã hội để có tư tưởng, định hướng nghề nghiệp rõ ràng.
Để tăng sự hiện diện của phụ nữ trong khoa học và công nghệ thông qua truyền thông, các đại biểu đề xuất một số giải pháp cụ thể:
Một là, phát triển chiến lược truyền thông dài hạn về phụ nữ và khoa học và công nghệ. Các cơ quan truyền thông cần được định hướng xây dựng chiến lược truyền thông dài hạn, có hệ thống nhằm thúc đẩy hình ảnh tích cực về phụ nữ trong khoa học.
Hai là, tăng cường đào tạo phóng viên và biên tập viên về bình đẳng giới. Bộ Khoa học và Công nghệ có thể tổ chức các khóa tập huấn, biên soạn cẩm nang hướng dẫn báo chí viết về giới và khoa học và công nghệ. Điều này giúp tránh tình trạng thông tin rập khuôn, sáo rỗng hoặc củng cố định kiến giới trong quá trình truyền thông.
Ba là, khuyến khích các nhà khoa học nữ tham gia truyền thông. Một trong những rào cản lớn là sự “im lặng” của chính các nhà khoa học nữ trước truyền thông đại chúng. Do đó, cần khuyến khích và đào tạo phụ nữ làm khoa học về kỹ năng phát ngôn, trình bày kết quả nghiên cứu, viết bài phổ biến khoa học hoặc tham gia các diễn đàn truyền thông.
Bốn là, xây dựng mạng lưới truyền thông - khoa học - tổ chức xã hội. Một giải pháp chiến lược là thiết lập mạng lưới hợp tác giữa các cơ quan báo chí, tổ chức khoa học và tổ chức phụ nữ nhằm xây dựng kênh truyền thông chuyên biệt về phụ nữ trong khoa học và công nghệ. Các mạng lưới này có thể cùng tổ chức giải báo chí, sự kiện truyền thông khoa học, diễn đàn công khai về giới và khoa học và công nghệ.
Năm là, cần lồng ghép các chỉ tiêu và hoạt động truyền thông về bình đẳng giới trong khoa học và công nghệ vào Chiến lược quốc gia phát triển khoa học và côn. Việc quy định tỷ lệ tin bài, thời lượng phát sóng hoặc ngân sách truyền thông dành cho chủ đề phụ nữ và khoa học và công nghệ trong các chương trình mục tiêu quốc gia sẽ tạo ra sự bảo đảm thể chế để vấn đề này không bị xem nhẹ hoặc bị gián đoạn.
VVH