Thứ sáu, 23/02/2024 15:53

Khám phá loài ong dú có tiềm năng kinh tế ở một số tỉnh Tây Bắc Việt Nam

Các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam vừa khám phá thành công loài ong dú có tiềm năng lớn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là kết quả của đề tài “Khám phá các loài ong mật ít dẫn liệu (Hymenoptera apoidea) ở một số tỉnh Tây Bắc Việt Nam và đặc điểm sinh học của loài ong dú có tiềm năng kinh tế” thuộc Chương trình Hỗ trợ cán bộ khoa học trẻ của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.

Loài côn trùng được nhiều nhà khoa học quan tâm

Với vai trò quan trọng trong quá trình thụ phấn, các loài ong mật nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nhà khoa học trên thế giới. Nhiều nghiên cứu cho thấy, đã có hơn 20.000 loài ong thuộc 07 họ được phát hiện, phân bố trên toàn thế giới. Bên cạnh giống với số lượng loài phong phú, vẫn tồn tại các giống có rất ít loài và thông tin về đặc điểm sinh học của chúng rất hạn chế, trong đó có nhóm ong dú.

Ong dú là nhóm ong xã hội nhỏ nhất sản xuất mật, thuộc họ Apidae. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm kiếm và phát hiện được 10 loài ong dú thuộc 04 giống. Sản phẩm (mật ong, phấn hoa và keo ong) được tạo ra từ nhóm ong này có nhiều công dụng trong y học. Tuy nhiên, đến nay chưa có nghiên cứu nào về cấu trúc tổ, hình thái các giai đoạn phát triển phục vụ quá trình thuần dưỡng và phát triển đàn ong này. Hiện nay, các loài ong dú đang trở thành xu hướng nuôi thương mại ở nhiều quốc gia ở khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Indonesia…

Khám phá mới về loài ong mật có giá trị

Các loài ong mật ở Việt Nam bắt đầu được nghiên cứu vào đầu thế kỷ XX do Viện Bảo vệ Thực vật tiến hành, ghi nhận 31 loài, 17 dạng loài thuộc 04 họ Apidae, Colletidae, Halictidae và Megachilidae. Tuy nhiên, các loài này đều thuộc các giống khá phổ biến như Apis, Bombus, Megachile hay Xylocopa. Vài năm trở lại đây, các nghiên cứu về từng giống ít dẫn liệu đã được tiến hành nhưng rất ít mẫu vật ở Tây Bắc. Với điều kiện địa hình và khí hậu đặc thù, Tây Bắc là khu vực có sự đặc trưng cao về thành phần loài sinh vật, đặc biệt là những nơi có tiềm năng để khám phá những loài ít dẫn liệu cũng như phát hiện những đơn vị phân loài mới cho khoa học.

Trong nghiên cứu này, lần đầu tiên ThS Trần Thị Ngát và các cộng sự thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã đưa ra danh sách thành phần các loài ong mật ít dẫn liệu ở một số tỉnh Tây Bắc và những dẫn liệu về đặc điểm sinh học như cấu trúc tổ, các giai đoạn phát triển hay hoạt động bay của loài ong dú có tiềm năng kinh tế.

Thu bắt mẫu ong mật bằng vợt côn trùng.

Đề tài đã ghi nhận tổng số 18 loài ong thuộc 04 họ Apidae, Halictidae, Megachilidae và Melittidae ở khu vực Tây Bắc. Trong đó, họ Apidae gồm 09 loài của 06 giống, họ Megachilidae gồm 07 loài của 05 giống, họ Halictidae và họ Melittidae đều ghi nhận 01 loài của 01 giống. Kết quả nghiên cứu đã phát hiện 01 phân tộc mới (Noteriadina), 01 giống mới cho khoa học (Ebaiotrigona), 02 loài mới cho khoa học (Bathanthidium pacoNoteriades hangkia), 03 loài ghi nhận mới cho Việt Nam (Thrinchostoma sladeni, Anthidiellum carinatum Chelostoma aureocinctum); đồng thời xác định có 93 loài phổ biến ở Tây Bắc gồm Lepidotrigona flavibasis, Tetragonula laevicepsEuapsis polyensis (trong đó có một số loài phân bố khá hẹp như Bathanthidium paco ở Hoà Bình, Thrinchostoma sladeni ở Điện Biên và Macropis hedini ở Lào Cai.

Lỗ tổ của loài Lepidotrigona flavibasis.

Đặc biệt, nghiên cứu đã xác định được 04 loài ong dú có tiềm năng trong việc khai thác các sản phẩm do chúng tạo ra như:  mật ong, phấn hoa và keo ong. Hai loài Lepidotrigona flavibasis và loài Tetragonula gressitti có tiềm năng hơn so với Ebaiotrigona carpenteri trong việc khai thác mật ong và phấn hoa do chúng tạo ra. Nguyên nhân do kích thước bầu phấn và mật ở loài E. carpenteri rất nhỏ và cho lượng mật và phấn rất ít. Trong khi đó, khả năng thích nghi trong thùng nuôi ở đàn ong Lepidotrigona flavibasis tốt hơn so với Tetragonula gressitti thể hiện ở việc đàn Lepidotrigona flavibasis phát triển rất tốt khi chuyển vào thùng còn đàn Tetragonula gressitti kém phát triển và có xu hướng lụi đàn. Mặt khác, mật của loài Lepidotrigona flavibasis trong, có màu vàng sáng còn mật Tetragonula gressitti có màu nâu tối. Trên thế giới, mật ong của loài Lepidotrigona flavibasis còn được đánh giá là tốt hơn so với Apis ceranaApis dorsata. Như vậy, Lepidotrigona flavibasis là một trong những loài có tiềm năng trong việc thuần dưỡng, nhân nuôi và phát triển đàn, hướng đến việc nuôi thương mại lấy mật và phấn hoa ở khu vực Tây Bắc. Bên cạnh đó, đề tài còn đưa ra dẫn liệu về cấu trúc tổ và hình thái các giai đoạn phát triển của loài ong dú có tiềm năng sử dụng nhất Lepidotrigona flavibasis ở khu vực Tây Bắc, làm cơ sở cho việc thuần dưỡng và phát triển đàn ong dú này.

Các kết quả nghiên cứu khoa học và những sản phẩm của đề tài có những đóng góp kiến thức về đa dạng sinh học ở vùng Tây Bắc Việt Nam cũng như định hướng phát triển các loài ong dú có tiềm năng mang lại kinh tế cao, ngoài ra kết quả này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo và giảng dạy về lĩnh vực đa dạng các loài côn trùng. Đề tài đã góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật nói riêng, nhà khoa học trẻ trong cả nước nói chung về lĩnh vực côn trùng và ong mật.

Chu Ngân - Phong Vũ

 

 

 

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)