Thứ năm, 31/07/2025 16:24

Nâng cao chất lượng đào tạo đổi mới sáng tạo và tư duy khởi nghiệp tại các cơ sở giáo dục

TS Ngô Thị Bảo Hương

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Trong bối cảnh chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo (AI) đang tái định hình các cấu trúc kinh tế toàn cầu, giáo dục khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo đã trở thành một trụ cột chiến lược trong xây dựng năng lực nội sinh và thúc đẩy phát triển bền vững quốc gia. Tại Việt Nam, khi tầm nhìn về nền kinh tế tri thức và hệ sinh thái đổi mới đã được thể chế hóa trong các chiến lược quốc gia, thì yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục khởi nghiệp trong các cơ sở giáo dục đại học đặt ra thách thức cải tổ toàn diện cả về chương trình, phương pháp và cơ chế vận hành.

Nâng cao chất lượng đào tạo đổi mới sáng tạo và tư duy khởi nghiệp tại các cơ sở giáo dục chính là đòn bẩy chiến lược để góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam một cách bền vững.

Thực trạng giáo dục đổi mới sáng tạo và tư duy khởi nghiệp tại Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện rõ định hướng chiến lược khi xác lập đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm trong các chính sách phát triển quốc gia. Nghị quyết số 57 không chỉ thể hiện cam kết mạnh mẽ về phát triển kinh tế tri thức mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt thông qua giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có tư duy khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo làm trọng tâm.

Tuy nhiên, quá trình hiện thực hóa tầm nhìn này trong thực tế lại bộc lộ không ít khoảng cách. Theo Báo cáo của của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) cho thấy, trong số hơn 60% các trường đại học có triển khai hoạt động khởi nghiệp, chỉ dưới 15% có quỹ tài chính độc lập hoặc cơ chế hỗ trợ khởi nghiệp một cách bền vững. Đa phần các trường hiện nay còn triển khai theo hướng phong trào, thiếu tính hệ thống và thiếu sự gắn kết với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.

Một trong những hạn chế căn bản là việc thiếu một hệ thống chương trình đào tạo khởi nghiệp có tính tích hợp, liên ngành và xuyên suốt trong hệ thống giáo dục quốc dân. Phần lớn các hoạt động đào tạo khởi nghiệp hiện vẫn chỉ dừng lại ở mức ngoại khóa, hoặc được lồng ghép một cách rời rạc vào các học phần lý thuyết mà chưa có cơ chế cụ thể để đánh giá kết quả theo hướng phát triển năng lực đổi mới và tư duy hệ sinh thái. Thêm vào đó là đội ngũ giảng viên giảng dạy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo còn thiếu nhiều giảng viên có kinh nghiệm thực tiễn về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đồng thời thiếu khả năng tích hợp công nghệ vào quá trình giảng dạy, đang làm giảm đáng kể hiệu quả truyền cảm hứng đổi mới cho người học. Hệ quả là, nhiều chương trình vẫn dừng lại ở lý thuyết, chưa tạo được không gian trải nghiệm, sáng tạo thực chất gây ra “sự cách biệt giữa dạy và làm khởi nghiệp”.

Ngoài ra, hệ thống hạ tầng phục vụ hoạt động đổi mới sáng tạo trong trường học còn yếu và thiếu. Các không gian sáng tạo, phòng thí nghiệm mở, trung tâm đổi mới sáng tạo hay vườn ươm khởi nghiệp mới chỉ xuất hiện tại một số ít trường đại học trọng điểm ở đô thị lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, còn lại phần lớn các cơ sở giáo dục vẫn chưa có điều kiện tiếp cận các thiết bị, nền tảng công nghệ và nguồn lực cần thiết để triển khai đào tạo khởi nghiệp đổi mới sáng tạo một cách hiệu quả. Còn rất thiếu sự kết nối giữa nhà trường, doanh nghiệp, nhà đầu tư, tổ chức hỗ trợ khiến cho sinh viên dù có ý tưởng tốt cũng không dễ chuyển hóa thành sản phẩm thực tế hoặc mô hình kinh doanh bền vững. Theo báo cáo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), tỷ lệ thương mại hóa thành công các dự án khởi nghiệp từ sinh viên tại Việt Nam còn rất thấp, chủ yếu do thiếu vốn đầu tư mồi, mentor hướng dẫn và môi trường trải nghiệm thực tiễn.

Một trở ngại lớn nữa đến từ việc các cơ sở giáo dục là chưa bắt nhịp được với tốc độ phát triển công nghệ và chuyển đổi số. Mặc dù Việt Nam đặt mục tiêu kinh tế số chiếm 30-35% GDP vào năm 2030, nhưng hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục đào tạo khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thì việc tích hợp các công nghệ tiên tiến như AI, dữ liệu lớn, blockchain hay các mô hình kinh doanh nền tảng là những công nghệ đang tái định hình mô hình tăng trưởng toàn cầu còn rất ít. Trong khi các quốc gia tiên tiến đã tích hợp AI vào mô phỏng mô hình kinh doanh, ra quyết định chiến lược, thì tại Việt Nam người học được tiếp xúc với các công cụ này trong môi trường đào tạo chính quy còn rất hạn chế.

Quy mô vốn đầu tư và tỷ trọng startup GenAI trong khu vực ASEAN đến năm 2024 (nguồn: Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC)).

Bên cạnh đó, đầu tư cho giáo dục khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo chưa trở thành ưu tiên chiến lược trong danh mục của các nhà đầu tư công nghệ. Năm 2024 vốn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đã suy giảm đáng kể trong khi nhiều lĩnh vực như fintech, logistics, AI lại tăng trưởng đột biến. Hình 1 cho thấy các startup AI của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và xếp thứ 2 tại Đông Nam Á.

Hình 2. Dự báo mức đóng góp của AI vào GDP Việt Nam đến năm 2040 (nguồn: Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC)).

Sự tác động của AI đối với nền kinh tế Việt Nam được ước tính dựa trên đóng góp vào tăng trưởng doanh thu và tiết kiệm chi phí thông qua việc nâng cao năng suất lao động (hình 2). Ước tính tác động kinh tế của AI đối với nền kinh tế Việt Nam, thông qua việc gia tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí từ nâng cao năng suất lao động. Dựa trên phân tích của Công ty Boston Consulting Group (BCG), đến năm 2040, AI có thể đóng góp hơn 120 tỷ USD cho GDP của Việt Nam. Đây là tín hiệu rõ ràng cho thấy, nếu tích hợp hiệu quả AI vào giáo dục khởi nghiệp, Việt Nam có thể đẩy mạnh thương mại hóa ý tưởng đổi mới, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh kinh tế số toàn cầu hóa. Đây là minh chứng thuyết phục cho thấy, để giáo dục khởi nghiệp thực sự trở thành lực đẩy phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam cần đẩy mạnh tích hợp các công nghệ mới như AI vào chương trình đào tạo và định vị lại đầu tư chiến lược cho lĩnh vực giáo dục khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Điều đặc biệt đáng kể đến nữa là sự liên kết giữa các trụ cột chính của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bao gồm nhà trường, doanh nghiệp, nhà đầu tư và tổ chức trung gian vẫn còn rời rạc. Hệ quả là các ý tưởng sáng tạo của sinh viên khó có cơ hội phát triển thành mô hình kinh doanh thực tế. Việc thiếu cơ chế điều phối liên ngành là nguyên nhân khiến chuỗi đổi mới khép kín từ đào tạo đến thương mại hóa chưa hình thành một cách vững chắc. Có thể thấy, mặc dù có định hướng chiến lược rõ ràng và nền tảng chính sách tương đối thuận lợi nhưng giáo dục khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam hiện vẫn đang ở giai đoạn “đặt nền móng”. Để thực sự giáo dục khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam chuyển hóa để tạo ra nguồn lực thực hiện phát triển nền kinh tế quốc gia bền vững, cần một cuộc tái thiết căn bản từ tư duy đào tạo, phương pháp giảng dạy, hạ tầng công nghệ cho đến khung thể chế và mạng lưới liên kết đa chiều.

 Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đổi mới sáng tạo và tư duy khởi nghiệp

Để đưa giáo dục khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trở thành hạt nhân phát triển kinh tế tri thức tạo nguồn lực phục vụ thúc đẩy nền kinh tế bền vững, thì rất cần thiết kế một chiến lược tổng thể, gắn kết các yếu tố chương trình bao gồm con người, công nghệ, thể chế chính sách và hệ sinh thái. Cụ thể, cần triển khai một loạt giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ và gắn với chiến lược quốc gia về chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hội nhập toàn cầu. Đây không chỉ là bài toán chuyên môn về giáo dục, mà còn là yêu cầu tái thiết mô hình phát triển quốc gia trong bối cảnh chuyển đổi số, cạnh tranh toàn cầu và dịch chuyển nhanh chóng của các chuỗi giá trị. Xuất phát từ thực trạng và các phân tích học thuật đã trình bày, tác giả đề xuất một số định hướng chính sách mang tính hệ thống nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, đóng vai trò nền tảng cho phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam trong kỷ nguyên số.

Thứ nhất, cần xây dựng một chiến lược quốc gia riêng về giáo dục khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, có tính liên ngành và phù hợp với từng vùng kinh tế - xã hội. Chiến lược này nên tích hợp vào lộ trình thực hiện Nghị quyết số 57 và Chương trình chuyển đổi số quốc gia, với sự phối hợp giữa các bộ ngành và địa phương. Trong đó, cần đặt trọng tâm vào việc phát triển năng lực số trong giáo dục khởi nghiệp như hệ thống EdTech, nền tảng học tập mô phỏng, công cụ phân tích dữ liệu mở và AI trong mô hình hóa kinh doanh nhằm tăng tính thực tiễn, rút ngắn thời gian thử nghiệm và tăng khả năng thương mại hóa ý tưởng.

Thứ hai, cần chuẩn hóa chương trình và khung năng lực đào tạo khởi nghiệp trên toàn quốc, bao gồm cả tiêu chí đánh giá kết quả học tập dựa trên khả năng tạo tác động xã hội, khả năng tích hợp công nghệ và mức độ chuyển hóa ý tưởng thành sản phẩm. Điều quan trọng là không chỉ mở rộng phạm vi đào tạo sang các lĩnh vực ngoài kinh tế như kỹ thuật, nông nghiệp, văn hóa, mà còn cần đưa các nội dung như ESG, SDGs, đạo đức kinh doanh vào toàn bộ chương trình giảng dạy.

Thứ ba, cần hỗ trợ xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo học đường đóng vai trò như các “hệ sinh thái học thuật tích hợp”, nơi kết nối không gian sáng tạo, phòng lab công nghệ, mentor doanh nghiệp và các quỹ đầu tư mạo hiểm học đường. Các trung tâm này cần có sự tham gia trực tiếp của doanh nghiệp trong việc đồng kiến tạo chương trình đào tạo và hỗ trợ ươm mầm ý tưởng khởi nghiệp. Mô hình đối tác công - tư (PPP) nên được thí điểm tại các trường trọng điểm từ nay đến 2027 để xây dựng mô hình vận hành hiệu quả, có khả năng mở rộng.

Thứ tư, về thể chế và tài chính, cần ban hành cơ chế sandbox pháp lý riêng cho startup sinh viên, đồng thời cho phép nhà trường có quyền sở hữu một phần trong doanh nghiệp sinh viên sáng lập nhằm quay vòng nguồn vốn hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong nội bộ nhà trường. Song song, Chính phủ nên có chính sách miễn giảm thuế, bảo lãnh tín dụng và khuyến khích các mô hình đầu tư tạo tác động xã hội (impact investing) vào giáo dục khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, góp phần tạo dòng vốn dài hạn và bền vững cho khởi nghiệp học đường.

Thứ năm, giáo dục khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cần được xác lập như một trụ cột trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia. Không chỉ đào tạo người học biết kinh doanh, mà phải có tư duy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, nhân thức, hiểu được vai trò của mình về sứ mệnh xã hội trong sự phát triển bền vững, và tinh thần khai phóng đây là yếu tố nền tảng để xây dựng nguồn lực thế hệ chủ nhân đất nước Việt Nam bản lĩnh, trách nhiệm và sẵn sàng hội nhập toàn cầu.

Thay lời kết

Bối cảnh phát triển toàn cầu đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là năng lực thích ứng, sáng tạo và khả năng khởi tạo giá trị trong môi trường số hóa và bất định. Trong điều kiện đó, giáo dục khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo không chỉ là một xu hướng mang tính toàn cầu, mà là một yêu cầu thiết yếu để Việt Nam xây dựng nền tảng nội lực phục vụ cho tăng trưởng bền vững, xanh và tự chủ. Như khẳng định trong Nghị quyết số 57, đổi mới sáng tạo chính là động lực chủ đạo của mô hình phát triển quốc gia trong giai đoạn mới. Có thể thấy rằng để giáo dục khởi nghiệp thực sự đóng vai trò hạt nhân trong việc hình thành năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia, cần một cuộc tái cấu trúc toàn diện: từ nội dung chương trình, năng lực đội ngũ, cơ chế hỗ trợ tài chính đến việc xây dựng hệ sinh thái học đường kết nối với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Chỉ khi khởi nghiệp được “nội sinh hóa” vào trong triết lý giáo dục đại học, thì nguồn nhân lực của Việt Nam mới đủ sức đương đầu với thách thức của thời đại số, đồng thời góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam một cách bền vững đến năm 2030 và xa hơn nữa.

 

 

 

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)