Thứ tư, 30/07/2025 16:53

Triển khai xây dựng Cổng thông tin điện tử quốc gia về phơi nhiễm trường điện từ (EMF)

Ngày 25/7/2025, tại trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã chủ trì buổi làm việc với các đơn vị thuộc Khối Chuyển đổi số (gồm Cục Viễn thông, Cục Tần số vô tuyến điện, Cục Bưu điện Trung ương, Trung tâm Internet Việt Nam và Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam) về định hướng phát triển thời gian tới. Trên cơ sở ý kiến của các đơn vị báo cáo và đại biểu tham dự buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã có kết luận định hướng cho sự phát triển của Khối trong thời gian tới.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng.

Về nhận thức chung

Chuyển đổi vai trò từ Quản lý sang Dẫn dắt, Kiến tạo: Quản lý nhà nước không chỉ là ban hành chính sách để doanh nghiệp tuân thủ, mà phải là người kiến tạo không gian mới, định hướng, dẫn dắt và tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành. Cơ quan quản lý nhà nước phải đi trước doanh nghiệp về tư duy, tầm nhìn và công nghệ.

Hạ tầng viễn thông là hạ tầng chiến lược quốc gia. Do vậy cần một cuộc cách mạng trong nhận thức, chuyển từ coi viễn thông là hạ tầng thông thường sang hạ tầng chiến lược quốc gia; từ hạ tầng của ngành viễn thông sang hạ tầng của nền kinh tế số; từ hạ tầng hữu hình sang hạ tầng số bao trùm. Mọi hoạt động quy hoạch, phát triển, quản lý phải đặt lợi ích quốc gia, sự an toàn, tự chủ lên hàng đầu.

Tiêu chuẩn đi trước để dẫn dắt: Tiêu chuẩn và đo lường là công cụ quản lý nhà nước sắc bén, không chỉ để hậu kiểm mà để định hướng, kiến tạo thị trường và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh. Do vậy, phải xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia hoàn chỉnh, tiên tiến, đi trước một bước so với thực tiễn để nâng cao chất lượng dịch vụ và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, từ offline sang online: Mô hình quản lý dựa trên “xin - cho” giấy phép, kiểm tra thủ công đã lỗi thời. Phải chuyển mạnh sang giám sát bằng nền tảng số theo thời gian thực, quản lý dựa trên rủi ro và hậu kiểm. Minh bạch là sức mạnh của quản lý nhà nước; công khai dữ liệu về chất lượng mạng lưới, dịch vụ sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh tích cực và niềm tin cho xã hội.

Quản lý phải mang tư duy liên ngành: Hạ tầng số là hạ tầng của mọi ngành. Do đó, quản lý viễn thông và hạ tầng số phải mang tư duy liên ngành. Phải chủ động làm việc, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành khác để tháo gỡ các điểm nghẽn, tạo ra các không gian phát triển mới và đảm bảo sự phát triển đồng bộ, hài hòa.

Bên cạnh đó, cần chủ động hội nhập và tham gia định hình luật chơi quốc tế: Chủ động và có chiến lược trong việc đưa người Việt Nam tham gia, giữ các vị trí quan trọng tại các tổ chức quốc tế (không chỉ là cán bộ của Bộ mà là những chuyên gia xuất sắc của toàn ngành). Đây là cách để Việt Nam tham gia sâu hơn vào việc định hình luật chơi, tiêu chuẩn toàn cầu, bảo vệ lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế của đất nước

Định hướng hoạt động thời gian tới

Cục Viễn thông - Trở thành Cơ quan điều tiết hạ tầng số và dịch vụ số quốc gia: Theo đó, Cục cần mở rộng phạm vi quản lý: Chuyển trọng tâm từ quản lý hạ tầng vật lý (cột, dây) sang quản lý các nền tảng và dịch vụ số. Đưa các nền tảng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số vào phạm vi giám sát và điều tiết. Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh: Thúc đẩy việc chuyển đổi thị trường từ cạnh tranh về hạ tầng sang cạnh tranh về dịch vụ và trải nghiệm khách hàng, về chia sẻ hạ tầng (trạm BTS, cáp quang) giữa các nhà mạng, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa và tạo điều kiện cho các nhà mạng ảo (MVNO) phát triển. Hiện đại hóa công cụ quản lý: Xây dựng các nền tảng số để giám sát chất lượng dịch vụ theo thời gian thực. Cục cần yêu cầu nhà mạng cung cấp dữ liệu qua API và công khai hóa các chỉ số chất lượng để người dân giám sát và lựa chọn. Đồng thời cần tiên phong về “Viễn thông xanh”: Phối hợp với Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia và các đơn vị liên quan xây dựng, trình cấp có thẩm quyền xem xét ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn về mạng 5G, trung tâm dữ liệu. Khuyến khích các mô hình chia sẻ năng lượng tái tạo tại các trạm BTS.

Cục Tần số vô tuyến điện - Trở thành Cơ quan Quản lý tần số động và linh hoạt: Theo đó, Cục cần chuyển đổi mô hình cấp phép: từ cấp phát cố định, dài hạn sang mô hình cấp phép linh hoạt, chia sẻ tần số. Chia sẻ theo thời gian, phạm vi sử dụng. Tần số là công cụ để thực hiện mục tiêu quốc gia: Thúc đẩy thị trường hoá tần số, đấu giá minh bạch. Đấu giá kèm điều kiện phủ sóng rộng, hỗ trợ phủ sóng rộng bằng tiền đấu giá tần số. Mở cửa cho đổi mới sáng tạo: Thiết lập các “sandbox tần số”, chủ động cấp phép thử nghiệm cho các công nghệ tương lai (6G, IoT băng siêu hẹp, mạng vệ tinh quỹ đạo thấp) cho các doanh nghiệp, viện nghiên cứu. Giám sát thông minh: Xây dựng và hiện đại hóa hệ thống giám sát phổ tần quốc gia, ứng dụng mạnh mẽ AI để tự động phát hiện, phân tích và cảnh báo can nhiễu, vi phạm theo thời gian thực.

Cục Bưu điện Trung ương - Trở thành Cơ quan vận hành hạ tầng số đặc biệt của Đảng và Nhà nước: Theo đó, Cục cần xác định sứ mệnh mới là chuyển đổi từ vai trò truyền thống sang xây dựng, quản lý và vận hành một hạ tầng số dùng riêng, thống nhất, tích hợp, an toàn và bảo mật cấp độ cao nhất cho toàn bộ hệ thống chính trị, sẵn sàng trong mọi tình huống (thiên tai, sự cố an ninh mạng). Xây dựng hạ tầng số dùng chung quốc gia: Đảm bảo kết nối, liên thông, đồng bộ, an toàn, bảo mật cho cả hệ thống chính trị; quản lý, vận hành các nền tảng mang tính hạ tầng; xây dựng và vận hành Trung tâm quản lý, điều hành, giám sát mạng tập trung; ứng dụng AI trong giám sát, phân tích, cảnh báosự cố mạng. Tích hợp đa mạng, kết nối mọi lúc mọi nơi: Xây dựng mạng dùng riêng 5G/vệ tinh kết nối các hệ thống, hạ tầng do Cục Bưu điện Trung ương quản lý. Đồng thời Cục cần đổi mới toàn diện nguồn nhân lực, xây dựng mô hình vận hành để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới.

Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) - Trở thành Trung tâm Hạ tầng tài nguyên số và chủ quyền Internet quốc gia: Theo đó, Trung tâm cần mở rộng định nghĩa và vai trò: VNNIC phải là “Tổng công trình sư” về tài nguyên số quốc gia, mở rộng phạm vi quản lý từ tên miền (.vn), IP sang các tài nguyên số nền tảng khác như: định danh số, định danh dữ liệu (DataID), hạ tầng khóa công khai Internet (RPKI)... Đồng thời củng cố chủ quyền Internet: Xây dựng hạ tầng DNS quốc gia mạnh, đa tầng, an toàn, đảm bảo Internet Việt Nam có thể hoạt động ổn định và độc lập. Thúc đẩy mạnh mẽ việc đưa các Root Server về Việt Nam. Phát triển các dịch vụ công nền tảng: Cung cấp các dịch vụ định danh và xác thực tin cậy dựa trên tài nguyên số (ví dụ: tên miền xác thực danh tính id.vn), tích hợp sâu với các hệ thống của Chính phủ số. Ngoài ra, Trung tâm cần tiên phong cho Internet thế hệ mới: Dẫn dắt và thúc đẩy quá trình chuyển đổi toàn diện sang IPv6 và hướng tới chỉ sử dụng IPv6 (IPv6-Only), đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và đề xuất chính sách cho các công nghệ mới như QUIC, DNS-over-HTTPS.

Đối với Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam - Trở thành Quỹ Phát triển hạ tầng và dịch vụ số công ích: Tái định nghĩa “công ích”: Mở rộng đối tượng hỗ trợ từ dịch vụ viễn thông cơ bản (thoại, internet) sang các dịch vụ số thiết yếu cho xã hội như y tế số, giáo dục số, nền tảng số cho nông nghiệp... Quỹ cần đổi mới cơ chế tài chính: Chuyển đổi mô hình hoạt động từ một quỹ tài chính thụ động sang một quỹ phát triển chủ động. Đa dạng hóa nguồn thu, nghiên cứu đề xuất thu phí từ các nền tảng số xuyên biên giới, một phần từ đấu giá tần số; đổi mới quản trị và vận hành theo hương áp dụng cơ chế khoán chi, quản lý theo hiệu quả đầu ra thay vì đầu vào.

Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị của Khối Chuyển đổi số. Cụ thể:

Khối Viễn thông khẩn trương xây dựng đề án/kế hoạch triển khai các định hướng của Bộ trưởng tại buổi làm việc, trình Lãnh đạo Bộ xem xét, ban hành một văn bản chỉ đạo chung cho toàn khối. Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn các đơn vị về việc: tuyển dụng, kiện toàn cán bộ lãnh đạo cấp phòng và tương đương, tháo gỡ các vướng mắc hiện tại; sắp xếp lại tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Phòng Thanh tra hiện nay của các đơn vị. Vụ Pháp chế được giao chủ trì xây dựng, trình Bộ trưởng ban hành Quy chế xây dựng, ban hành, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển văn bản quy phạm pháp luật và tham gia góp ý vào các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Bộ Khoa học và Công nghệ.

Cục Tần số vô tuyến điện được giao triển khai xây dựng Cổng thông tin điện tử quốc gia về phơi nhiễm trường điện từ (EMF) và đưa vào triển khai thí điểm trong tháng 12/2025. Đồng thời đưa vào vận hành sau khi tiêu chuẩn/quy chuẩn về giám sát phơi nhiễm trường điện từ được ban hành. Triển khai nghiên cứu thí điểm chế tạo thiết bị kiểm soát tần số vô tuyến điện.

Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia được giao tổ chức làm việc với các bộ, ngành để rà soát và đề xuất xây dựng các TCVN còn thiếu và hoàn thành hệ thống tiêu chuẩn trong giai đoạn 2025-2026. Đồng thời lấy ý kiến các cơ quan, đơn vị trong Bộ đề nghị rà soát số lượng TCVN thuộc phạm vi quản lý đến hết năm 2026 cần ban hành để phối hợp xử lý.

Trung tâm Công nghệ thông tin được giao chủ trì, nghiên cứu và đề xuất giải pháp công nghệ hỗ trợ các đơn vị thuộc Bộ số hóa biểu mẫu, quy trình nghiệp vụ. Bên cạnh đó, Trung tâm Internet Việt Nam chủ trì thực hiện xây dựng kế hoạch công bố lộ trình dừng giao thức Internet phiên bản 4 (IPv4) tại Việt Nam vào năm 2030.

CT

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)