Mở đầu
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam trong suốt mấy nghìn năm lịch sử. Đến thời đại Hồ Chí Minh, quy luật đó được biểu hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng kinh tế kết hợp với bảo vệ quốc phòng là một dạng thức của việc kết hợp hai nhiệm vụ và trở thành chiến lược của Việt Nam. Theo đó, tổ chức quân đội và đường lối quân sự của Việt Nam cũng không nằm ngoài chiến lược chung đó.
Ngay từ khi thành lập năm 1944, ngoài nhiệm vụ căn cốt và thường trực của quân đội là chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, quân đội còn có nhiệm vụ rất quan trọng sản xuất, xây dựng kinh tế. Nhiệm vụ đó đã được Đảng và Hồ Chủ tịch khẳng định: Quân đội Việt Nam là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất”. Đây là ba chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội được thể hiện rất rõ qua các văn kiện, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), cũng như tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số nhà lãnh đạo trong quân đội Việt Nam.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, mức độ tham gia xây dựng kinh tế của quân đội lại khác nhau. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), quân đội tham gia xây dựng kinh tế bằng cách chủ động tăng gia sản xuất, tự cung tự cấp một phần kinh tế. Điều này được thể hiện rất rõ trong đường lối “kháng chiến - kiến quốc” của Trung ương Đảng. Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), đất nước cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Lúc này, nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội được đặt ra rõ ràng hơn. Quân đội trở thành lực lượng xung kích đi đầu tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Ngày 23/08/1956, Bộ Quốc phòng ban hành Nghị định số 30/NĐ thành lập Cục Nông binh1, có nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo công tác tổ chức quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế. Sự ra đời của Cục Nông binh là một mốc son đánh dấu một chặng đường mới khi quân đội chuyển sang hoạt động xây dựng kinh tế với quy mô lớn, cách tổ chức chặt chẽ và có hệ thống. Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, có thời điểm, Bộ Quốc phòng đưa 8 vạn quân đội sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế.
Ngày 30/04/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, mở ra thời kỳ độc lập, thống nhất. Cả nước bước vào giai đoạn thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng kinh tế, tái kiến thiết đất nước sau chiến tranh là nhiệm quan trọng đặt ra cho Đảng và Chính phủ Việt Nam. Ngày 29/09/1975, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) chỉ rõ:
“Các lực lượng vũ trang, kể cả các đơn vị thường trực, phải tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đối với tất cả các trai tráng và chế độ quân đội tham gia xây dựng kinh tế” [1, tr.378].
Từ chủ trương chung của Trung ương Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiệm vụ quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, với vai trò là Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã thể hiện rõ tư tưởng, quan điểm của mình qua các bài viết, bài giảng hay bài nói chuyện. Dưới đây là những quan điểm và tư tưởng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về nhiệm vụ xây dựng kinh tế của quân đội:
Quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một nhiệm vụ chính trị quan trọng
Sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: Quân đội thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước, trong đó, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ chính trị quan trọng và có ý nghĩa rất lớn đến nhiệm vụ quốc phòng.
Sau khi Nghị quyết số 24 ra đời, tháng 10/1976, tại lớp học quản lý kinh tế của cán bộ cao cấp và trung cấp toàn quân, Đại tướng có buổi trao đổi với lực lượng quân đội về nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Mở đầu bài trao đổi với lực lượng quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thẳng thắn chia sẻ: “Nhiệm vụ cách mạng thay đổi thì nhiệm vụ quân sự cũng thay đổi, vì nhiệm vụ quân sự bao giờ cũng xuất phát từ nhiệm vụ chính trị. Nếu như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhiệm vụ quân sự của cách mạng nước ta là tiến hành chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thì nay nhiệm vụ quân sự trong giai đoạn mới là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc” [2, tr.17]. Trong bối cảnh đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, quân đội không đứng ngoài thời cuộc, không là lực lượng tiêu phí của cải vật chất của xã hội. “Quân đội là một lực lượng lớn, phải sản xuất ra của cải vật chất, cùng với nhân dân cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quân đội ta cần phải làm và có điều kiện để làm tốt điều đó. Cho nên, lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một nhiệm vụ chính trị rất quan trọng của quân đội ta. Phải coi là nhiệm vụ vẻ vang của quân đội đối với sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Đồng thời đó cũng là sự chuẩn bị rất căn bản cho yêu cầu sẵn sàng chiến đấu về lâu dài của đất nước cũng như của bản thân quân đội”. “Quân đội ta không chỉ là công cụ bạo lực chủ yếu của chuyên chính vô sản, mà còn là lực lượng xung kích của Đảng trên mặt trận kinh tế” [2, tr.20-21]. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, quân đội phải là lực lượng xung kích trên mặt trận lao động sản xuất. Quân đội là lực lượng lao động to lớn của xã hội, mang lại hiệu quả rất lớn về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, chính trị, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Tham gia xây dựng kinh tế không nằm ngoài nhiệm vụ và mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân đội.
Đại tướng cho rằng, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ chính trị to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam, là nhiệm vụ thuộc về bản chất của quân đội cách mạng, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế là thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, cũng như bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ xây dựng kinh tế hoàn toàn đáp ứng với nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân sự. Hơn nữa, xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước cũng là để xây dựng lực lượng quân đội lớn mạnh. Vì vậy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kêu gọi “mọi người, mọi đơn vị hãy phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo của người làm chủ tập thể tranh thủ lấy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành thật xuất sắc cả hai nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước” [2, tr.23].
Như vậy, theo Đại tướng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước là hai nhiệm vụ chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quân đội tham gia xây dựng kinh tế nhằm củng cố và tăng cường quốc phòng cho đất nước
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện rất rõ quan điểm: Quân đội tham gia xây dựng kinh tế nhằm củng cố và tăng cường quốc phòng đất nước. Quân đội tham gia xây dựng kinh tế tuyệt đối không sao nhãng nhiệm vụ căn cốt là chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường kinh tế nhằm củng cố quốc phòng.
Bàn về mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định, kinh tế và quốc phòng có mối quan hệ mật thiết với nhau: “Cho nên nói nhiệm vụ quân sự phải thấy nhiệm vụ chính trị, nói nhiệm vụ quốc phòng phải thấy nhiệm vụ kinh tế, nói nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải thấy nhiệm vụ xây dựng đất nước” [2, tr.19]. “Phải thấy xây dựng kinh tế và sẵn sàng chiến đấu, kinh tế và quốc phòng gắn bó với nhau rất mật thiết” [2, tr.27]. Đại tướng chỉ ra: Muốn quốc phòng vững mạnh thì nền kinh tế đất nước phải mạnh. Bởi “có công nghiệp hiện đại mới có gang thép để sản xuất vũ khí; có nông nghiệp hiện đại mới giải quyết vấn đề lương thực một cách cơ bản; có giao thông hiện đại mới đáp ứng yêu cầu cơ động cao của quân đội… Ngày nay, không thể nói đến sẵn sàng chiến đấu, đến quốc phòng mạnh nếu không xây dựng được nền kinh tế mạnh. Có kinh tế mạnh mới có quốc phòng mạnh. Cho nên kinh tế và quốc phòng, xây dựng kinh tế và sẵn sàng chiến đấu về cơ bản là nhất trí. Quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế cùng với toàn dân xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, xét về cơ bản và lâu dài cũng là nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu của đất nước” [2, tr.27-28].
Theo Đại tướng, quân đội tham gia xây dựng kinh tế không đơn thuần là làm kinh tế thuần túy như các đơn vị, doanh nghiệp dân sự. Quân đội không làm kinh tế chạy theo lợi nhuận thuần túy, cũng không làm kinh tế theo kiểu mệnh lệnh quân sự vừa không hiệu quả, vừa gây thiệt hại cho Nhà nước. Quân đội tham gia xây dựng kinh tế là một lực lượng đặc thù, xét đến cùng để phục vụ quốc phòng. Quân đội không làm kinh tế chạy theo lợi nhuận thuần túy, bỏ qua mục tiêu quốc phòng. Mục đích xây dựng kinh tế nhằm củng cố quốc phòng an ninh.
Quân đội tham gia xây dựng kinh tế luôn nắm vững đường lối xây dựng kinh tế của Đảng
Đại tướng bày tỏ quan điểm: Xây dựng kinh tế là nhiệm vụ mới và khó khăn đối với quân đội. Quân đội xây dựng kinh tế không theo kiểu tùy tiện, phân tán mà phải có tổ chức và phải nắm vững đường lối xây dựng kinh tế của Đảng và Nhà nước. Quân đội tham gia xây dựng kinh tế là một vấn đề lớn và có tính chiến lược. Bàn về vấn đề quân đội tham gia xây dựng kinh tế, Đại tướng đưa ra phương hướng xây dựng kinh tế của quân đội: “Bây giờ, quân đội làm kinh tế thì phải nhằm vào phương hướng nào, làm ngành gì, làm ở đâu để góp phần tích cực nhất, có hiệu quả nhất cùng toàn dân tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế” [3, tr.95-96]. Từ đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đưa ra những định hướng đối với từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể:
Về xây dựng cơ bản, từ thực tế sau chiến tranh kết thúc, nhiều nhà máy, công trình, địa phương cần được xây dựng để tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội chủ nghĩa. Đại tướng đưa gợi ý, một bộ phận rất quan trọng của lực lượng quân đội làm nhiệm vụ kinh tế sẽ được tổ chức thành những lực lượng xây dựng mạnh, cùng với công nhân ngành xây dựng của Nhà nước, đáp ứng những yêu cầu về xây dựng rất to lớn và khẩn trương của đất nước [2, tr.38].
Về giao thông vận tải, lực lượng quân đội phát huy truyền thống “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đem những kinh nghiệm, khả năng sẵn có của mình, góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ lớn Đảng đã giao” [2, tr.39].
Về kinh tế nông nghiệp, quân đội được giao nhiệm vụ mở mang những vùng kinh tế mới liên hiệp nông nghiệp và công nghiệp ở những vùng xung yếu, lập những vùng chuyên canh trồng cây lương thực và cây công nghiệp; Khai phá những vùng đất xa xôi chưa có dấu chân người, xây dựng từ đầu những vùng kinh tế mới liên hiệp nông nghiệp và công nghiệp, những khu lâm nghiệp hoặc khai thác biển, hải đảo và thềm lục địa là mở mang cho Tổ quốc những vùng mới giàu có, những tiềm lực quốc phòng mới [2, tr.41].
Đối với ngành công nghiệp quốc phòng, cần phải kết hợp với ngành cơ khí Nhà nước, cũng phải sản xuất ra những công cụ lao động phục vụ cho bộ đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, sản xuất một số hàng tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân [2, tr.42].
Đại tướng chỉ rõ, quân đội tham gia xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh đất nước. Về địa bàn, quân đội phát triển vùng kinh tế mới, phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng an ninh ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, những địa bàn có ý nghĩa chiến lược về quốc phòng. Các lực lượng chuyên làm kinh tế nhưng vẫn tiến hành giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự để đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Trong quá trình tham gia xây dựng kinh tế, quân đội luôn tăng cường đoàn kết, phối hợp với chính quyền và nhân dân địa phương.
Quân đội tham gia xây dựng kinh tế phải biết làm chủ khoa học - kỹ thuật
Theo Đại tướng, quân đội muốn sản xuất tốt, làm kinh tế giỏi thì cần nắm bắt và ứng dụng khoa học - kỹ thuật. Đại tướng luôn coi trọng việc học hỏi, nắm bắt và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Nhận thức rất rõ vai trò và tầm quan trọng của khoa học - kỹ thuật, Đại tướng chỉ rõ lực lượng quân đội phải nắm bắt được khoa học - kỹ thuật và coi nó như một “chìa khóa” để thành công. Trong đó, Đại tướng đặc biệt coi trọng nhân tố con người và khẳng định đây là nhân tố quyết định. Trên mặt trận kinh tế, mỗi chiến sĩ phát minh sáng kiến, cải tiến công cụ sản xuất, nhằm tăng năng suất lao động; đồng thời, trở thành những người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc kiên cường, những người lao động sản xuất giỏi.
*
* *
Hiện nay, vấn đề bảo vệ chủ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, vùng biên giới, hải đảo, vấn đề biển Đông vẫn đang diễn biến rất phức tạp. Tư tưởng của Đại tướng về quân đội tham gia xây dựng kinh tế vẫn còn nguyên giá trị. Đó là di sản tư tưởng về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; tham gia phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn của Tổ quốc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
LỜI CẢM ƠN
Bài viết là sản phẩm của đề tài khoa học cấp cơ sở “Quân đội tham gia xây dựng kinh tế giai đoạn 1998-2020”, tác giả xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 36, 1975, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] Võ Nguyên Giáp (1977), Về nhiệm vụ xây dựng kinh tế của Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
[3] Võ Nguyên Giáp (2016), Thực hiện lời Bác: Quân đội là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, in trong cuốn “Quân đội trên mặt trận sản xuất, xây dựng kinh tế, 60 năm hành trình cùng đất nước”, Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
1Ngày 05/04/1976, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 59/CP thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế. Qua nhiều lần thay đổi tên gọi, nay là: Cục Kinh tế, thuộc Bộ Quốc phòng.