Thực trạng năng lượng tái tạo tại Việt Nam hiện nay
Về phát triển năng lượng tái tạo
Trong thời gian qua, Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng tái tạo đã thu hút được nhiều sự quan tâm, ngỏ lời đầu tư từ nhiều doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, là điểm đến lý tưởng để phát triển năng lượng tái tạo. Chỉ trong năm 2018, tổng lượng đầu tư vào năng lượng tái tạo đạt mức kỷ lục từ trước đến nay là 5,2 tỷ USD, hơn 9 lần với năm 2017; những chương trình, dự án hỗ trợ quốc tế đạt tổng giá trị tài trợ lên đến 440 triệu USD; vốn vay ODA ước tính khoảng 420 triệu USD, trong đó chiếm 15,5 triệu USD là viện trợ không hoàn lại. Đầu tư lĩnh vực năng lượng tái tạo xếp vị thứ 10 (năm 2018) vươn lên vị thứ ba (năm 2019) trong xếp hạng các lĩnh vực đầu tư hấp dẫn nhất cả nước. Tính đến năm 2020, tổng FDI đầu tư vào lĩnh vực phân phối, sản xuất điện đạt trên 5,1 tỷ USD, gấp 4 lần so với năm 2019; có 113 dự án điện (gồm: điện mặt trời, điện gió) được tận dụng, khai thác hết công suất với tổng công suất trên 5.700 MW.
Điện mặt trời tại Việt Nam: Trong năm 2020, được công nhận vận hành thương mại COD (Commercial operation date) trong cả nước có tổng 48 dự án với tổng công suất là 8.652,9 MW, tiến lên trở thành quốc gia toàn diện nhất Đông Nam Á về công suất điện mặt trời được lắp đặt (chiếm đến 2,3% tổng công suất toàn cầu và đạt công suất bình quân 60 W/người). Hệ thống điện mặt trời trong năm 2020 cung cấp xấp xỉ 10,6 TWh điện, chiếm gần 4% tổng sản lượng điện trên cả nước; Việt Nam nằm trong danh sách 10 quốc gia có năng lực lắp đặt điện mặt trời lớn nhất thế giới với vị trí thứ 8 (trong năm 2020). Với tổng số giờ nắng cao trên 2.500 giờ/năm, tổng lượng bức xạ tăng dần về phía nam với trung bình hàng năm khoảng 230-250 kcal/cm2, càng thuận lợi để khai thác tối đa, triệt để năng lượng mặt trời.
Điện gió tại Việt Nam: Trong hệ thống điện quốc gia, ký hợp đồng mua bán điện (PPA) đã có 146 dự án điện gió với công suất là 8.171,475 MW (đã được công nhận vận hành thương mại COD). Trong năm 2021, điện gió ghi nhận kết quả tốc độ tăng trưởng đáng kể, với tổng năng lực tăng từ 540 MW (năm 2020) lên xấp xỉ 4.000 MW (năm 2021); trong khu vực Việt Nam vươn lên vị thứ 2 về tốc độ phát triển nguồn năng lượng tái tạo. Đến nay, lĩnh vực năng lượng tái tạo trải qua nhiều sự phát triển vượt bậc trong hoạt động kinh doanh, đầu tư, đặc biệt là các dự án điện mặt trời và điện gió; điện từ các nguồn năng lượng tái tạo (gồm điện mặt trời nối lưới, điện gió, năng lượng sinh khối và thủy điện) tỷ trọng sản lượng tăng lên nhanh chóng, đột phá. Các nhà máy điện năng lượng tái tạo và thủy điện vừa và lớn với tổng công suất đạt 43.126 MW, chiếm đến 55,2% tổng công suất hệ thống điện của Việt Nam (78.121 MW); trong đó, điện gió đạt 4.126 MW, điện mặt trời mái nhà là 7.660 MW, điện mặt trời trang trại 8.904 MW, thủy điện là 22.111 MW, năng lượng sinh khối là 325 MW. Con số thật ấn tượng, tuy nhiên nhìn lại tỷ trọng của năng lượng tái tạo vẫn tương đối thấp, trong năm 2020 chỉ chiếm khoảng 9% trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp của cả nước, vẫn phụ thuộc nhiều từ than (chiếm tỷ trọng 51%) mà chưa thật sự tận dụng các nguồn tài nguyên sẵn có khác để phát triển năng lượng tái tạo.

Cánh đồng điện gió Đầm Nại (nguồn: Tạp chí điện tử Môi trường và cuộc sống).
Nguồn nhân lực trong lĩnh vực sản xuất, lắp đặt, vận hành và bảo trì được kỳ vọng sẽ phát triển nhiều việc làm từ ngành năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Những dự án năng lượng tái tạo thu hút thêm nhiều nguồn đầu tư cả trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển bền vững. Cơ hội hiếm có để doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm đối với xã hội, cải thiện hình ảnh, uy tín và khẳng định vị thế trong mắt khách hàng và đối tác trong việc sử dụng năng lượng tái tạo. Tại nhiều địa phương ở Việt Nam, đây là xu hướng tất yếu đang được khuyến khích phát triển thông qua các mô hình chuyển đổi sang công trình xanh, tòa nhà xanh. 10 năm tới, tốc độ tăng trưởng năng lượng tái tạo dự kiến đạt khoảng 20% tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp, mở ra nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh. Chỉ tính riêng đối với chuyển dịch 2 ngành điện mặt trời và điện gió, tiềm năng đóng góp lên tới 70-80 tỷ USD vào GDP cả nước, khoảng 105 nghìn việc làm trực tiếp được tạo ra. Dù được kỳ vọng với tiềm lực sẵn có, nhưng thực tế lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng được, trì trệ.
Về khung pháp lý năng lượng tái tạo
Hiến pháp 2013 đã một phần tiếp cận được năng lượng tái tạo, tại Điều 63 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ: Chính sách bảo vệ môi trường được Nhà nước quan tâm và xây dựng; đặc biệt là chú trọng quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động chung tay bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; răn đe tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và buộc có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại. Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả có đề cập về năng lượng tái tạo nhằm bảo đảm điện năng quốc gia, phát triển bền vững nguồn năng lượng nhưng chưa quy định cụ thể năng lượng tái tạo trong sản xuất công nghiệp, mặc dù ngành này chiếm hơn 50% tổng năng lượng tiêu thụ toàn quốc (theo đánh giá của Bộ Công Thương). Mặc dù đã có bước đầu tiếp cận các quy định về năng lượng tái tạo, tuy nhiên vẫn chưa tương xứng tiềm lực vốn có về năng lượng tái tạo của Việt Nam, chưa bảo đảm trong việc phát triển năng lượng tái tạo và đang thiếu rất nhiều quy định giúp phát triển mạnh mẽ ngành năng lượng tái tạo.
Kinh nghiệm của Trung Quốc trong khung pháp lý về năng lượng tái tạo
Luật Năng lượng của Trung Quốc được coi là văn bản mang tính định hướng cho sự phát triển vượt bậc của ngành năng lượng tái tạo. Luật đã cung cấp các gói ưu đãi tài chính như: Quỹ thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo của quốc gia với mục tiêu ưu đãi cho các dự án năng lượng tái tạo; yêu cầu mua các nguyên liệu từ các nhà sản xuất năng lượng tái tạo đã đăng ký đối với các nhà khai thác lưới điện.
Theo Luật Năng lượng năm 2024, Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ phát triển năng lượng nông thôn theo nguyên tắc hội nhập thành thị - nông thôn, các biện pháp có sự điều chỉnh phù hợp với điều kiện của từng địa phương, bổ sung nhiều nguồn năng lượng, sử dụng toàn diện, nâng cao dịch vụ, tập trung hỗ trợ phát triển năng lượng nông thôn ở các vùng cách mạng cũ, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, vùng kém phát triển, nâng cao năng lực cung cấp năng lượng nông thôn và mức độ dịch vụ. Chính quyền từ cấp huyện trở lên phải phối hợp xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng đô thị, nông thôn và hệ thống dịch vụ công, thúc đẩy liên kết cơ sở hạ tầng năng lượng đô thị và nông thôn. Có thể thấy, Trung Quốc đã có những hỗ trợ các dự án năng lượng tái tạo đến nông thôn.
Bên cạnh đó, Luật còn quy định trong quá trình phát triển khoa học công nghệ và công nghiệp công nghệ cao, Nhà nước hỗ trợ nghiên cứu, phát triển, trình diễn, thúc đẩy ứng dụng và công nghiệp hóa các công nghệ, thiết bị và vật liệu mới liên quan cơ bản, then chốt, tiên tiến trong các lĩnh vực thăm dò và phát triển nguồn năng lượng, sử dụng sạch và hiệu quả năng lượng hóa thạch, phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, sử dụng an toàn năng lượng hạt nhân, phát triển và sử dụng năng lượng hydro, cũng như lưu trữ năng lượng và bảo tồn năng lượng. Đổi mới khoa học công nghệ năng lượng phải được đưa vào các lĩnh vực hỗ trợ trọng điểm của kế hoạch phát triển khoa học công nghệ quốc gia và kế hoạch phát triển ngành công nghệ cao. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện chính sách công nghiệp, tài chính, mua sắm công và các chính sách khác để khuyến khích, hướng dẫn các nguồn vốn xã hội đầu tư vào đổi mới khoa học và công nghệ năng lượng.
Nhà nước tăng cường bồi dưỡng, phát triển nhân tài chuyên môn về khoa học và công nghệ năng lượng, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở giáo dục, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu khoa học chuyên sâu và doanh nghiệp hợp tác bồi dưỡng nhân tài chuyên môn chất lượng cao về khoa học và công nghệ năng lượng.
Một số đề xuất nhằm hoàn thiện khung pháp lý về năng lượng tái tạo tại Việt Nam
Tham khảo kinh nghiệm từ Trung Quốc và thực tiễn Việt Nam, bài viết có một số khuyến nghị, đề xuất các quy định về năng lượng tái tạo như sau:
Thứ nhất, ưu đãi tiêu dùng đối với các thiết bị năng lượng mặt trời. Hiện nay các thiết bị năng lượng mặt trời đã được phổ biến, song vẫn chưa được người tiêu dùng sử dụng rộng rãi vì giá thành cao, ưu đãi tiêu dùng các thiết bị năng lượng mặt trời là một cách kích thích cầu và cung nhằm hạn chế sử dụng, giảm sản xuất nhiệt điện than truyền thống, tránh phát thải.
Thứ hai, quy định hỗ trợ tài chính phát triển khoa học công nghệ dựa trên các tài nguyên, lợi thế quốc gia cho việc phát triển năng lượng tái tạo. Việt Nam là nước có địa thế cực kỳ lý tưởng, thuận lợi cho sự phát triển đột phá của ngành năng lượng tái tạo (đặc biệt là điện mặt trời, điện gió, thủy điện và điện sinh khối). Việt Nam có số giờ nắng cao trên 2.500 giờ/năm mỗi năm, bức xạ mặt trời với cường độ lớn không chênh lệch nhiều qua các năm; trong khu vực, Việt Nam với nguồn tài nguyên gió lớn bậc nhất với tiềm năng 4.000 MW, tổng diện tích chiếm 39% có tốc độ gió lớn hơn 6 m/giây; với hơn 3 nghìn sông, ngòi lớn, nhỏ; nguồn năng lượng sinh khối dồi dào, được tổng kết từ nhiều nguồn khác nhau, như gỗ củi, phế thải từ nông nghiệp, rác thải đô thị. Khai thác triệt để, bền vững tài nguyên, lợi thế sẵn có rất quan trọng, vì không ảnh hưởng nhiều đến mặt khác.
Thứ ba, quy định bồi dưỡng, nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ ngành năng lượng tái tạo. Việc có đội ngũ chuyên môn cao sẽ làm giảm chi phí, làm giảm gánh nặng trong việc tìm ra các giải pháp phát triển khoa học - kỹ thuật trong ngành năng lượng tái tạo. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn tạo điều kiện để trình độ khoa học và công nghệ của nước ta bắt kịp với những xu hướng bảo đảm an ninh năng lượng, trong đó nồng cốt trong tương lai là năng lượng tái tạo và nặng lượng hạt nhân.