
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV (nguồn: quochoi.vn).
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong quá trình triển khai thi hành pháp luật về KH,CN&ĐMST, một số nội dung chưa phù hợp với yêu cầu và cần có chính sách mới để tháo gỡ vướng mắc. Cụ thể:
Thứ nhất, nền kinh tế của Việt Nam đang chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội với mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao và yếu tố động lực của KH,CN&ĐMST ngày càng rõ nét đòi hỏi nhà nước cần có các cơ chế, chính sách phục vụ cho mục đích này. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định đầy đủ cơ chế, chính sách thu hút nguồn lực phục vụ KH,CN&ĐMST.
Thứ hai, các tác động của hội nhập sâu rộng và toàn diện của Việt Nam trong một thế giới phát triển mạnh mẽ, đột biến, nhất là về KH,CN&ĐMST đòi hỏi các hành lang pháp lý; cơ chế chính sách phải được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, nhiều vướng mắc xuất phát từ tình hình thực tiễn hoặc những quy định pháp luật không phù hợp, thiếu tính khả thi, là rào cản cho sự phát triển của KH,CN&ĐMST. Cụ thể:
Về tổ chức, nhân lực:
Liên quan đến cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN, đặc biệt là các tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập: Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định về tự chủ tài chính với các đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực khác nhau nên chưa phù hợp với lĩnh vực KH&CN khi nhiều đơn vị có chức năng chính là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và chính sách phục vụ quản lý nhà nước, không có nguồn thu trực tiếp từ xã hội do kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào xây dựng cơ chế, chính sách và chủ thể tiếp nhận kết quả nghiên cứu là các cơ quan trong hệ thống chính trị. Quy định về lộ trình tự chủ tài chính tăng dần có thể phù hợp với đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công và có nguồn thu sự nghiệp ổn định, nhưng không thể áp dụng đối với tất cả các tổ chức KH&CN, là nơi thực hiện nghiên cứu và sáng tạo, kết quả nghiên cứu có thể đạt được hoặc không đạt được các chỉ tiêu đề ra và không phải kết quả nào cũng có thể thương mại hóa ngay hoặc thương mại hóa thành công, điển hình là đối với những tổ chức nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và chính sách... Đồng thời, tự chủ về tài chính không nên được hiểu là tự bảo đảm về tài chính hay tự cung, tự cấp trong KH&CN, dẫn tới cắt giảm tối đa ngân sách nhà nước, giảm số lượng tổ chức KH&CN được nhận kinh phí hoạt động thường xuyên từ ngân sách, dẫn đến suy giảm số lượng nhân lực hoạt động KH&CN, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Theo thông lệ quốc tế, các cơ sở nghiên cứu công lập phải được đảm bảo nguồn đầu tư cơ bản quan trọng từ ngân sách nhà nước bên cạnh các khoản thu hợp pháp khác được khuyến khích từ nguồn liên kết, hợp tác với doanh nghiệp, nguồn tài trợ nghiên cứu theo cơ chế cạnh tranh trong nước và từ nước ngoài.
Ngoài ra, tổ chức KH&CN còn gặp các vướng mắc liên quan đến tổ chức bộ máy, chủ động trong việc sử dụng và quản lý nguồn nhân lực. Pháp luật hiện hành chưa tính đến các nội dung sau: mô hình quản trị trong các tổ chức trực thuộc và thuộc để xác định mức độ tự chủ của từng tổ chức nhỏ trong một tổ chức lớn và cách thức xác định mức độ tự chủ của tổ chức lớn; mô hình quản trị đối với các loại hình tổ chức KH&CN tạo ra sản phẩm nghiên cứu có khả năng thương mại hóa cao, làm chủ công nghệ có tính đột phá, dẫn dắt phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật; phương thức hoạt động của cán bộ nghiên cứu kiêm nhiệm, người nước ngoài tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ tại tổ chức KH&CN công lập. Chưa có cơ chế đặc thù cho phép nhà khoa học là viên chức được tham gia điều hành doanh nghiệp do viện nghiên cứu, trường đại học thành lập từ kết quả nghiên cứu và phát triển để tạo động lực cho các nhà khoa học trong triển khai hoạt động KH,CN&ĐMST, tạo môi trường để doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nguồn (startup/spin-off) tồn tại, cạnh tranh trên thị trường. Chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để thu hút được các chuyên gia giỏi là chuyên gia, người Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia vào các nhiệm vụ khoa học và phát triển công nghệ và các hoạt động KHCN&ĐMST khác tại Việt Nam, đặc biệt trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên và công nghệ mới nổi mà trong nước còn thiếu hụt nhân lực. Trong thực tế, thủ tục cấp giấy phép lao động, thị thực phức tạp, quy định về nhập cảnh cũng gây khó khăn cho chuyên gia nước ngoài làm việc ngắn hạn, trong khi thời hạn thị thực ngắn hạn cản trở nhà đầu tư hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.
Về đầu tư, tài chính:
Cơ chế tài chính chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KHCN&ĐMST. Ngoài ra, cơ chế khoán chi theo quy định pháp luật hiện hành chưa phát huy hiệu quả. Theo đó, ít tổ chức chủ trì, cá nhân chủ nhiệm lựa chọn khoán chi đến sản phẩm cuối cùng vì yêu cầu kết quả nghiên cứu phải đạt chỉ tiêu đề ra, trong khi bản chất của KH&CN là tìm kiếm cái mới, là hoạt động sáng tạo, có tính rủi ro, có thể không đi đến kết quả đã định trước. Chưa có cơ chế đầu tư, tài chính đủ mạnh nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động KH,CN&ĐMST. Cụ thể, các chính sách về đầu tư, hỗ trợ tài chính, đấu thầu, mua bí quyết công nghệ, mua sắm công đối với sản phẩm, hàng hóa có nguồn gốc từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ do doanh nghiệp trong nước tạo ra. Đồng thời, chưa có quy định về quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo.
Hiện nay, các quỹ phát triển KH&CN quốc gia, bộ, ngành, địa phương chưa có sự rõ ràng về địa vị, tính chất pháp lý, dẫn đến sự nhầm lẫn với quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, gây khó khăn trong quản lý, vận hành và huy động nguồn lực. Việc thiếu cơ chế thống nhất khiến cho hoạt động của các quỹ này kém hiệu quả, ảnh hưởng đến việc phân bổ và sử dụng tài chính cho nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, nguồn tài chính cho các quỹ này chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, trong khi cơ chế huy động vốn từ doanh nghiệp và tổ chức xã hội còn hạn chế, chưa thực sự khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân. Ngoài ra, dự toán chi cho KH&CN chưa được đảm bảo chặt chẽ, dễ bị cắt giảm hoặc không được ưu tiên trong phân bổ ngân sách, khiến các nhiệm vụ nghiên cứu dài hạn gặp khó khăn trong việc duy trì và phát triển. Cơ chế cấp phát kinh phí cũng bộc lộ nhiều bất cập, như tình trạng cấp vốn chậm trễ, thiếu linh hoạt, dẫn đến gián đoạn tiến độ triển khai các dự án KH&CN. Đồng thời, chưa có quy trình rõ ràng để xác định kinh phí cho các nhiệm vụ mới và nhiệm vụ chuyển tiếp, dẫn đến sự phân bổ không đồng đều giữa các năm, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động nghiên cứu.
Về tài sản, kết quả hình thành từ nhiệm vụ KH&CN:
Liên quan đến giao quyền sở hữu kết quả KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì: các quy định về chuyển giao quyền sở hữu kết quả KH&CN cho tổ chức chủ trì trong Luật KH&CN, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn phải được sự cho phép của đại diện chủ sở hữu nhà nước còn rườm rà, phức tạp, không khả thi. Các vấn đề này dẫn đến tình trạng chậm ứng dụng thực tiễn, giảm động lực đổi mới sáng tạo và khó thu hút đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2013 mặc dù đã cho phép giao tự động và không bồi hoàn kết quả KH&CN là sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp, giống cây trồng nhưng chưa bao quát hết tất cả các đối tượng kết quả KH&CN. Bên cạnh đó, còn tồn tại bất cập trong việc xử lý tài sản hình thành từ các nhiệm vụ KH&CN, dù sử dụng nguồn ngân sách hay ngoài ngân sách nhà nước. Việc hạch toán chung tài sản từ kết quả nghiên cứu cũng gây ra bất cập trong việc theo dõi, định giá, khấu hao và kiểm soát hiệu quả sử dụng, làm hạn chế khả năng khai thác thương mại hóa. Ngoài ra, tổ chức chủ trì nhiệm vụ KH&CN chưa có quyền linh hoạt trong việc chuyển nhượng, cho thuê hoặc chuyển giao quyền sử dụng đối với tài sản hình thành từ kết quả nghiên cứu, cũng như sử dụng kết quả nghiên cứu để góp vốn liên doanh, liên kết và thương mại hóa. Điều này làm giảm khả năng thương mại hóa sản phẩm khoa học, gây khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư và mở rộng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST trong doanh nghiệp và phát triển thị trường:
Thực tiễn cho thấy, các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới gặp nhiều rào cản pháp lý do chưa có quy định cụ thể khiên cho hoạt động đổi mới sáng tạo bị hạn chế. Doanh nghiệp và cá nhân phát triển công nghệ mới thường gặp khó khăn trong việc triển khai do lo ngại về tính hợp pháp, rủi ro pháp lý và thiếu cơ chế thử nghiệm trước khi áp dụng rộng rãi. Đồng thời, cơ quan nhà nước cũng gặp thách thức trong việc đánh giá mức độ an toàn, hiệu quả và tác động của những đổi mới này, gây chậm trễ trong việc ban hành hoặc điều chỉnh chính sách phù hợp. Bên cạnh đó, việc không có cơ chế thử nghiệm rõ ràng khiến nhiều sáng kiến tiềm năng bị bỏ lỡ hoặc phải thử nghiệm không chính thức, gây rủi ro cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Ngoài ra, trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, tổ chức tham gia thử nghiệm chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến tâm lý e ngại trong việc triển khai ý tưởng mới.
Các dự án, trung tâm đổi mới sáng tạo hiện gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận ưu đãi thuế đối với hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố định, hàng hoá nhập khẩu sử dụng trực tiếp cho đổi mới sáng tạo, hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo. Các loại thuế xuất khẩu, nhập khẩu đánh vào tài sản cố định và nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho đổi mới sáng tạo làm gia tăng chi phí đầu tư, cản trở quá trình nghiên cứu và triển khai các giải pháp công nghệ mới. Điều này khiến các doanh nghiệp khởi nghiệp và tổ chức đổi mới sáng tạo gặp bất lợi trong cạnh tranh, đặc biệt khi so sánh với các quốc gia có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn.
Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp chưa thực sự khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động KH,CN&ĐMST. Các doanh nghiệp có chi phí đầu tư vào nghiên cứu, giáo dục nghề nghiệp, quốc phòng, an ninh hay tài trợ cho hoạt động đổi mới sáng tạo chưa được hưởng ưu đãi thuế một cách rõ ràng và nhất quán. Hơn nữa, các doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa có cơ chế ưu đãi thuế ổn định, dài hạn, khiến họ khó khăn trong việc hoạch định chiến lược đầu tư và phát triển. Các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ gặp khó khăn trong xác định loại hình dự án đầu tư mới, đặc biệt là các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh. Thiếu định nghĩa rõ ràng khiến họ khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ về tài chính, thuế và cơ chế khuyến khích từ Nhà nước, đồng thời cản trở quá trình nâng cấp, thay thế công nghệ, làm giảm khả năng cạnh tranh.
Hiện nay, việc phát triển công nghệ chiến lược tại Việt Nam gặp nhiều thách thức do chính sách ưu đãi và cơ chế hỗ trợ chưa đủ mạnh mẽ cho nghiên cứu, ứng dụng và thương mại hóa đối với các công nghệ này. Mặc dù công nghệ chiên lược đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo an ninh quốc gia, nhưng các doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu trong lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn đầu tư, nhân lực chất lượng cao và cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Bên cạnh đó, sự phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc nâng cao năng lực tự chủ công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực quan trọng như quốc phòng, an ninh và các ngành công nghiệp chiến lược. Việc thiếu chính sách ưu tiên phát triển các công nghệ có giá trị nội địa hóa cao và khả năng đóng góp trực tiếp vào nền kinh tế cũng làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, khiến Việt Nam chưa thể bắt kịp xu hướng công nghệ toàn cầu.
CT